Nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp

Trong mấy năm gần đây, dù tình hình kinh tế rất khó khăn, ngành Nông nghiệp vẫn tiếp tục thể hiện vai trò quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Nông nghiệp cũng đang bộc lộ  rất nhiều hạn chế. Phân tích hạn chế để tìm cho ra những lực đẩy để phát triển bền vững ngành Nông nghiệp Việt Nam đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất quan tâm.


Kinh tế Việt Nam gồm công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ  Mặc dù vậy nông nghiệp là Ngành có sức lan tỏa lớn nhất, có tính kết nối rất cao với đủ thứ ngành kinh tế. Nông nghiệp cung cấp đầu vào cho công nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến xuất khẩu; đồng thời, sử dụng sản phẩm của các ngành công nghiệp và dịch vụ, như: nhiên liệu, phân bón, hóa chất, máy móc cơ khí, năng lượng, tín dụng, bảo hiểm...Ngoài ra, nông nghiệp còn liên quan mật thiết đến sức mua của dân cư và sự phát triển thị trường trong nước. Với 50% lực lượng lao động cả nước đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và 70% dân số sống tại nông thôn, mức thu nhập trong nông nghiệp sẽ có  tác động rất lớn đến sức cầu của thị trường nội địa và tiềm năng đầu tư dài hạn. Nông nghiệp Việt Nam đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, tạo việc làm và thu nhập cho trước hết là khoảng 70% dân cư, là nhân tố quyết định xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế đất nước và ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Gần đây, tình hình kinh tế có khó khăn do bị tác động của khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, Nông nghiệp Việt Nam ngày càng rõ vai trò là trụ đỡ của nền kinh tế, tiếp tục ổn định và có mức tăng trưởng. Năm 2011 xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt gần 25 tỷ USD, tăng trưởng 29% so với năm 2010. Thặng dư thương mại toàn Ngành năm 2011 đạt trên 9,2 tỷ USD, góp phần giảm nhập siêu cả nước; nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP và chiếm 30% giá trị kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Năm 2012, nông nghiệp vẫn giữ đà tăng trưởng của năm 2011 với giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,4%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,8%, lâm nghiệp 6,4%, thủy sản 4,5%. Tốc độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,7%.

Năm 2013, giá trị sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản cả nước tăng 3,2%. Trong đó, nông nghiệp tăng 2,3%, lâm nghiệp 6%, thủy sản 4,5%. Tốc độ tăng trưởng toàn ngành (GDP) đạt 2,6%. Như vậy,  không phải là không thấy tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp rất đáng quan ngại, giảm dần, năm sau thấp hơn năm trước. Phân tích nguyên nhân tình trạng trên không phải là không thấy những bất cập cần được nghiên cứu khắc phục như sau:

Tăng trưởng nông nghiệp công sức qua của nước ta chủ yếu theo chiều rộng thông qua tăng diện tích, tăng vụ và dựa trên mức độ thâm dụng các yếu tố vật chất đầu vào cho sản xuất (lao động, vốn, vật tư) và đất đai. Sản xuất nông nghiệp đã và đang gây tác động tiêu cực đến môi trường như: mất đa dạng sinh học, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm nguồn nước, đất đai bị bạc màu, chi phí sản xuất tăng… đe dọa tính bền vững của tăng trưởng của ngành Nông nghiệp.

Trong tương lai, nguồn lực cho tăng trưởng nông nghiệp sẽ không còn được dồi dào, nông nghiệp sẽ phải cạnh tranh với các ngành công nghiệp và dịch vụ khác. Chí phí sản xuất ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam với vị thế là nước sản xuất có chi phí thấp so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do đầu tư cho nông nghiệp ngày càng giảm dần, không tương xứng với sự đóng góp của nông nghiệp cho nền kinh tế. Nếu như năm 2000, tỷ trọng đầu tư vào ngành Nông nghiệp chiếm 13,85% tổng đầu tư của xã hội, thì tới năm 2005 chỉ còn 7,5%; năm 2008: 6,45%; năm 2009: 6,26%; năm 2010: 6,2%. Đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ cho nông nghiệp cũng giảm, từ 21,5% năm 2006 xuống 21,3% năm 2010 trong tổng số.

Đặc biệt, việc thống kê về đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn rất khó bóc tách do có rất đủ thứ khoản chi cho công nghiệp, kết cấu hạ tầng nước nằm trên địa bàn nông thôn. Trong khi đó, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp luôn chịu độ rủi ro rất cao (Tuy chính sách bảo hiểm nông nghiệp đã được ban hành Nhưng mới chỉ thực hiện thí điểm tại 20 tỉnh, thành phố) khiến các doanh nghiệp dè dặt khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã giảm đáng kể, từ 8% năm 2001 xuống còn chỉ 1% năm 2010. Đầu tư của tư nhân trong nước chỉ chiếm từ 13-15% tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.

Nguyên nhân tiếp theo là thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, chế biến nông sản được đưa vào ứng dụng sản xuất chưa đủ thứ nên năng suất, chất lượng thành quả trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng, khai thác hải sản còn thấp.

Tình trạng sản xuất nông nghiệp manh mún, ruộng đất bị xé lẻ, phần lớn nông hộ có diện tích đất nhỏ, rải rác làm tăng rủi ro, ngăn cản quá trình áp dụng công nghệ tiên tiến, khó bảo quản hàng hóa, tăng chi phí sản xuất, gây phức tạp cho quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh.

Một nguyên nhân khác là công nghiệp chế biến nông sản vẫn còn kém phát triển. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô,  khi mà hàng hóa thành phẩm được sản xuất tại nước khác và sau đó lại được nhập khẩu tr tại lại Việt Nam. Điều này phản ánh nông dân, doanh nghiệp Việt Nam đang tự làm thất thoát giá trị hàng nông sản trên thị trường quốc tế. Cho tới nay, chỉ có rất ít thương hiệu và chỉ dẫn địa lý nổi tiếng gắn với nông sản Việt Nam.

Bên cạnh đó, năng lực các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản còn hạn chế, đặc biệt là năng lực quản lý, nghiên cứu, dự báo thị trường, năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế yếu; Công tác xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu chưa được quan tâm đầu tư đúng mức nên chưa tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu.

Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp chậm được đổi mới, cơ chế hợp tác liên kết sản xuất chế biến sản phẩm còn rất nhiều bất cập làm cản tr ở phát triển hợp tác nông-công do tính rủi ro khi ký kết hợp đồng bao tiêu nông sản với rất nhiều nông hộ nhỏ, lẻ, phân tán.
 tạo ra nông thôn mới là chương trình lớn nhất từ trước đến nay trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. đủ thứ kế hoạch, cơ chế chính sách đã được ban hành,  Mặc dù vậy  rất nhiều nơi vẫn mới dừng lại ở quy hoạch, đề án; Việc huy động các nguồn lực của toàn xã hội tạo lên nông thôn mới còn hạn chế.

Để khắc phục tồn tại, bất cập, phục hồi đà tăng trưởng của ngành nông nghiệp, toàn ngành cần được nghiên cứu, tập trung giải quyết một số  việc sau:

Thứ nhất, công nghệ cao là hướng đi duy nhất để nâng cao giá trị gia tăng của nông sản hàng hóa, khi mà các động lực khác cho phát triển như đất đai, lao động đều bị giới hạn. Giải pháp là đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ trong nông nghiệp; tích cực chuyển giao công nghệ, đào tạo và dạy nghề cho nông dân nhằm phát huy tài nguyên con người và áp dụng khoa học - công nghệ có hiệu quả.

Thứ hai,  có chính sách bảo hộ hợp lý đối vối nông sản trên cơ s ở tuân thủ các quy định của WTO. Chính sách hỗ trợ trong nông nghiệp gồm 2 loại: hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Nhà nước có cơ chế hỗ trợ  tạo ra quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, có chính sách các hợp tác xã, hội nông dân để giúp các tổ chức này hoạt động tốt trong vai trò cung ứng vật tư nông nghiệp thiết yếu, đào tạo, dạy nghề, cung cấp thông tin, hỗ trợ kinh phí, điều kiện sinh hoạt, buôn bán xuất khẩu nông sản, bảo vệ  chuyện tốt của người nông dân.

Thứ ba, thực hiện có  kết quả chính sách dồn điền đổi thửa. Nghiên cứu cho thấy, diện tích ruộng đất bình quân tại Việt Nam chỉ có 0,6 ha/hộ vào loại thấp nhất thế giới. Tình trạng này dẫn đến sản xuất phân tán manh mún, năng suất không cao, không hiệu quả. Chính sách dồn điền đổi thửa cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún, song cần có những tác động hỗ trợ cần thiết của Nhà nước để tạo điều kiện tích tụ ruộng đất gắn với phân công lại lao động nông thôn.

Thứ tư, Nhà nước rà soát chính sách để nâng cao chất lượng tín dụng nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để nông dân, các doanh nghiệp nông nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn. Trong đó có vốn tín dụng mua vật tư đầu tư đầu vào cho sản xuất và mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.

Thứ năm,  tạo lên các đô thị ngay bên trong nông thôn để tạo điều kiện cho người nông dân tăng được thu nhập và có động lực tại lại sản xuất nông nghiệp. Để làm được điều đó, Nhà nước có chính sách đầu tư  tạo ra kết cấu hạ tầng, đào tạo dạy nghề tốt tại nông thôn,  tạo ra nhà máy ở nông thôn và thu hút lao động tại chỗ, thực hiện ly nông bất ly hương. Nếu tìm được những ngành nghề có ưu thế để phát triển (phát triển các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, các ngành công nghiệp sản xuất vật tư, thiết bị cho nông nghiệp và hàng tiêu dùng cho nông thôn...) sẽ hình thành được nhiều đô thị  tại nông thôn. Việc này vừa giúp tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, vừa giúp giảm áp lực dân sinh sống trên địa bàn nông thôn di cư tự phát vào thành thị, giảm áp lực cho các đô thị.

Nếu làm tốt các rắc rối nêu trên, chúng ta tin chắc chắn rằng nông nghiệp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng, tiếp tục làm tốt vai trò là trụ đỡ cho nền kinh tế, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung của đất nước.
Title: Nông nghiệp Việt Nam thực trạng và giải pháp
Rating: 10 out of 10 based on 24 ratings. 5 user reviews.
Writed by Unknown